Cuộc xâm lăng của Đức Chiến_dịch_Na_Uy

Cuộc hành quân

Hạm đội hải quân 2 bên di chuyển trong các ngày 7–9 tháng 4

Cuộc xâm lược của Đức mở màn ngày 3 tháng 4 năm 1940, khi các tàu tiếp tế tiên phong bắt đầu rời bến cảng đi trước hạm đội chủ lực,[19] bí mật lên đường đến Stavanger, Trondheim và Narvik.[23] Phe Đồng minh cho thực hiện kế hoạch của mình vào ngày hôm sau, với 16 tàu ngầm được lệnh tiến về SkagerrakKattegat như một hành động bảo vệ và lời cảnh cáo đầu tiên đối với phản ứng có thể có của Đức trước chiến dịch Wilfred sẽ được tiến hành vào ngày hôm sau nữa khi tàu HMS Renown của Đô đốc William Whitworth rời hải phận Scapa Flow đến vịnh Vest cùng với 12 khu trục hạm hộ tống.

Ngày 7 tháng 4, thời tiết địa phương bắt đầu chuyển biến xấu, cả khu vực bị bao phủ bởi một màn sương mù dày đặc và biển động khiến cho việc di chuyển gặp khó khăn. Đội tàu Renown gặp phải bão tuyết lớn, và tàu HMS Glowworm, một trong những tàu khu trục hộ tống, đã phải rời khỏi đội hình để đi tìm kiếm một người bị rơi khỏi tàu.[24] Thế nhưng, thời tiết này lại có lợi cho Đức, giúp che chở cho quân đội của họ, và sáng sớm ngày hôm đó, Nhóm 1 và Nhóm 2, 2 đội tàu có tuyến đường hành quân xa nhất, đã bắt đầu khởi hành. Khoảng 3 giờ sáng ngày 7 tháng 4, các tàu quân sự Đức có chở theo các đơn vị quân đội, đã tập kết tại Bắc Na Uy, rồi tiến về phía bắc: lực lượng này bao gồm các chiến hạm Gneisenau (kỳ hạm của Phó Đô đốc Günther Lütjens) và Scharnhorst, tàu tuần dương hạng nặng Admiral Hipper cùng 14 khu trục hạm.[23]

Mặc dù thời tiết làm công tác trinh sát gặp khó khăn, 2 đội tàu của Đức vẫn bị lực lượng tuần tra của Hải quân Hoàng gia Anh phát hiện tại địa điểm cách Naze (điểm cực nam của Na Uy) 170 km về phía nam vào lúc hơn 8h00 sáng, nhưng họ lại báo cáo về là đối phương có 1 tuần dương hạm và 6 khu trục hạm. Một đội máy bay ném bom được cử đi tấn công các tàu Đức sau đó đã tìm thấy họ ở cách vị trí đó 125 km về phía bắc. Cuộc tấn công không gây được thiệt hại cho Đức, nhưng người Anh đã đánh giá chính xác hơn về lực lượng của Đức gồm 1 tuần dương hạm thiết giáp (lúc này Hải quân hoàng gia Anh phân các tàu chiến thuộc lớp thiết giáp hạm Scharnhorst vào loại tàu chiến tuần dương), 2 tuần dương hạm và 10 khu trục hạm. Do sự đòi hỏi tuân thủ nghiêm ngặt chế độ im lặng vô tuyến điện, các máy bay ném bom đã không thể báo cáo lại nhận định này cho đến 17h30 hôm đó.

Dựa vào những thông tin có được về sự di chuyển của quân đội Đức, Bộ Hải quân Anh đi đến nhận định rằng Đức đang cố gắng phá vỡ cuộc phong tỏa của Đồng minh và sử dụng hạm đội của mình để đánh phá tuyến đường thương mại ở Đại Tây Dương.[25] Đô đốc Charles Forbes, tổng tư lệnh Hạm đội Nhà Anh Quốc được thông báo lại như vậy và vào lúc 20h15 đã khởi hành tiến vào biển Bắc đi chặn đánh quân Đức, và một hạm đội khác tiến về vùng biển nằm giữa quần đảo ShetlandIceland.[26] Đêm hôm ấy, hạm đội Đức bị gặp bão, nó gây ra một số hư hại cho các tàu và cản trở nghiêm trọng việc di chuyển.[26]

Do cả hai bên đều không ý thức được về quy mô thực tế của tình hình, họ đều tiếp tục hành động như kế hoạch ban đầu. Tàu Renown đã đến vịnh Vest khuya hôm đó và đóng lại ở vị trí gần lối ra vào vịnh trong khi các tàu khu trục thực hiện nhiệm vụ rải mìn của mình. Cùng lúc ấy, người Đức cũng cho triển khai nốt các lực lượng viễn chinh còn lại. Cuộc đối đầu trực tiếp đầu tiên đã diễn ra vào sáng hôm sau và nằm ngoài dự định của cả hai bên.

Tàu Glowworm , trên đường quay về hội quân với tàu Renown, đã vô tình tiến đến phía sau tàu Z 11 Bernd von Arnim và sau đó là tàu Z 18 Hans Lüdemann của Đức trong màn sương mù dày đặc vào khoảng 8h00 ngày 8 tháng 4. Ngay lập tức một cuộc đọ súng nổ ra và các khu trục hạm Đức đã phải bỏ chạy và phát tín hiệu cầu cứu. Tàu Admiral Hipper đã đáp trả và nhanh chóng tấn công phá hỏng tàu Glowworm. Do bị thương quá nặng không thể chạy thoát khỏi chiếc tàu Đức to lớn hơn, tàu Glowworm đã lao thẳng vào đối phương, gây thương tích đáng kể bên mạn phải của tàu Admiral Hipper, rồi bị tiêu diệt bởi một loạt đạn trong cự li gần ngay sau đó. Tàu Admiral Hipper sau đó đã cùng 4 tàu khu trục khác tới vịnh Trondheim.[27] Trong quá trình chiến đấu, tàu Glowworm đã phá vỡ chế độ im lặng vô tuyến điện và thông báo cho Bộ Hải quân về tình hình của mình. Nhưng nó đã không thể hoàn thành thông điệp, nên Bộ Hải quân chỉ biết rằng Glowworm đã chạm trán với một tàu lớn của Đức, đã nổ súng, và không thể tái lập liên lạc với tàu khu trục này. Đáp lại, Bộ Hải quân ra lệnh cho tàu Renown và chiếc tàu khu trục hộ tống duy nhất còn lại (2 chiếc khác đã tới những bến cảng hữu nghị để tiếp nhiên liệu) rời vịnh Vest và tiến đến vị trí cuối cùng được biết đến của tàu Glowworm. Lúc 10h45, 8 tàu khu trục còn lại trong lực lượng rải mìn được lệnh cùng tham gia nhiệm vụ này.

Đến trưa, tàu ngầm Ba Lan Orzeł đã gặp và đánh chìm tàu chở quân bí mật Rio de Janeiro của Đức ở ngoài khơi cảng Lillesand phía nam Na Uy.[28]. Trong các mảnh vỡ của tàu, người ta phát hiện đồng phục lính Đức cùng nhiều vật dụng quân nhu. Nhưng khi tàu Orzel báo cáo lại sự việc với Bộ Hải quân, thì họ do quá chú tâm vào số phận của tàu Glowworm và cuộc đột phá được phỏng đoán của Đức nên không mấy để tâm và không coi trọng thông tin này. Nhiều lính Đức trong đống xác tàu được các tàu đánh cá Na Uy và khu trục hạm Odin giải cứu và trong quá trình thẩm vấn đã khai rằng họ được chỉ định đi bảo vệ Bergen khỏi mối đe dọa từ quân Đồng minh. Thông tin này đã được báo về Oslo nhưng bị Quốc hội Na Uy (Stortinget) bỏ qua do lúc này ho đang bị phân tâm bởi các hoạt động rải mìn của Anh ngoài khơi bờ biển Na Uy,[28] và đã không tiến hành một công tác phòng ngự nào hơn ngoài việc cảnh báo cho đội phòng thủ bờ biển.

Lúc 14h00, Bộ Hải quân nhận được báo cáo rằng máy bay trinh sát đã xác định được vị trí một đội tàu Đức ở cách Trondheim khá xa về phía tây-tây bắc. Điều này củng cố quan điểm cho rằng Đức thực sự có ý định tiến hành đột phá vòng phong tỏa, và Hạm đội Nhà lại chuyển hướng từ đông bắc quay về phía tây bắc để tiến hành chặn đánh. Thêm vào đó, Churchill đã hủy bỏ kế hoạch R 4 và ra lệnh cho 4 tàu tuần dương đang làm nhiệm vụ chở quân và đồ tiếp tế phải để tất cả lên bờ để đi phối hợp với Hạm đội Nhà. Trên thực tế, các tàu này của Đức, vốn thuộc Nhóm 2, chỉ tiến hành hoạt động trì hoãn quanh co nhằm đến được Trondheim vào đúng thời điểm đã định trước.

Đêm hôm ấy, sau khi nghe tin về số lượng lớn tàu Đức được phát hiện ở phía nam Na Uy, Charles Forbes bắt đầu nghi ngờ tính đúng đắn của nhận định về cuộc đột phá, và ra lệnh cho Hạm đội Nhà tiến về phía nam đến Skagerrak. Ngoài ra ông còn sai tàu HMS Repulse, cùng với một tuần dương hạm khác và vài khu trục hạm lên phía bắc hội quân với đội tàu Renown.

Lúc 23h00, khi Forbes vừa kịp biết về sự kiện của tàu ngầm Orzeł, Nhóm 5 đã đụng đầu tàu tuần tra Na Uy Pol III tại cửa ngõ vịnh Oslo. Tàu Pol III nhanh chóng báo động cho các đội biên phòng bờ biển trên đảo Rauøy và nổ súng vào tàu ngư lôi Albatros bằng khẩu pháo độc nhất của mình, trước khi đâm thẳng vào nó. Tàu Albatros cùng với hai tàu bạn đã đáp trả bằng hỏa lực phòng không, giết chết viên thuyền trưởng và đốt cháy chiếc tàu. Nhóm 5 tiếp tục tiến vào vịnh Oslo xóa sổ các khẩu đội vòng ngoài mà không gặp sự cố nào. Sau khi vượt qua các hệ thống đèn pha rọi nằm giữa Bolaerne và Rauey, nhóm liền tấn công nhằm chiếm các công sự và cảng quân sự chính của Na Uy, cảng Horten.[29] Hành động này đã không bị người Na Uy bỏ qua, và đã nhanh chóng được báo cáo về Oslo, dẫn đến một cuộc họp khẩn lúc nửa đêm của nội các Nygaardsvold. Trong cuộc họp, hội đồng đã ban bố mệnh lệnh động viên 4 trong số 6 lữ đoàn Lục quân Na Uy (gửi qua đường bưu điện). Các thành viên nội các đã không hiểu được rằng mệnh lệnh động viên hạn chế họ ban ra, theo quy định, sẽ được tiến hành bí mật và không thông báo trước công chúng. Thay vào đó, binh lính sẽ được nhận lệnh động viên qua thư. Người duy nhất trong số họ hiểu biết sâu sắc về hệ thống động viên là bộ trưởng quốc phòng Birger Ljungberg đã không giải thích những quy trình thủ tục đó cho các đồng nghiệp. Sau này ông ta đã bị chỉ trích gay gắt bởi thiếu sót này, nó khiến cho cuộc động viên của Na Uy bị trì hoãn một cách không cần thiết. Trước cuộc họp nội các, Ljungberg đã bác bỏ nhiều lần yêu cầu đề nghị nội các ban hành lệnh phải tổng động viên ngay lập tức của Rasmus Hatledal, người đứng đầu Bộ tham mưu Na Uy trong các ngày 5, 6 và 8 tháng 4. Vấn đề này cũng đã được đem ra thảo luận trong đêm 8 tháng 4, sau khi Đại tướng Tư lệnh Kristian Laake cũng lên tiếng kêu gọi động viên. Vào lúc đó cuộc động viên bị giới hạn với 2 tiểu đoàn chiến đấu tại Østfold, và không được tiến hành với quy mô lớn hơn. Khi đề nghị của Laake cuối cùng cũng được chấp nhận vào khoảng 3h30 đến 4h00 ngày 9 tháng 4, Laake đã giả định giống như bộ trưởng quốc phòng Ljungberg rằng nội các đã biết là họ đang ban hành một lệnh động viên một phần trong bí mật. Mối liên lạc yếu kém giữa các bộ phận quân nhân và dân sự Na Uy đã gây thêm nhiều lầm lẫn khác trong những ngày đầu của cuộc xâm lăng.[30][31][32]. Trong cuộc họp, hội đồng cũng đã ra tuyên bố rằng các tàu của Anh và Pháp sẽ không bị tấn công trước.

Cùng lúc ấy, ở xa hơn về phía bắc, tàu Renown đã quay đầu trở lại vịnh Vest sau khi tới được vị trí cuối cùng được xác định tàu Glowworm mà không tìm thấy nó. Biển động đã khiến Whitworth cho tàu đi quá lên phía bắc và tách rời khỏi 2 khu trục hạm hộ tống vào thời điểm chạm trán với tàu Scharnhorst và Gneisenau. Tàu Renown giao chiến với 2 thiết giáp hạm này và sau một trận đánh nhỏ Gneisenau bị hỏng hệ thống điều khiển hoả lực, phải cùng tàu Scharnhorst chạy về phía bắc. Renown cố gắng đuổi theo, nhưng đến 4h00 thì bị mất dấu vì thời tiết xấu.[33]

Giờ Weser

Đánh chiếm Đan Mạch

Bài chi tiết: Trận Đan Mạch
Xe thiết giáp Đức tại Jutland.

Kế hoạch tấn công và chiếm đóng Na Uy của Đức phụ thuộc nhiều vào lực lượng không quân. Để đảm bảo nắm chắc được eo biển Skagerrak nằm giữa Na Uy và Đan Mạch, thì phải chiếm đóng các căn cứ không quân tại Đan Mạch. Thống trị eo biển này sẽ giúp Đức ngăn cản Hải quân Hoàng gia Anh quấy phá con đường tiếp tế chủ yếu cho cuộc xâm lăng. Trên phương diện đó thì việc chiếm đóng Đan Mạch cũng như sân bay Aalborg ở phía bắc được xem là tối cần thiết.[34]

Quân đội Đức Quốc xã vượt biên giới Đan Mạch vào khoảng 4h15 ngày 9 tháng 4. Phối hợp với cuộc tấn công trên bộ, các toán quân Đức đã đổ bộ lên cảng Langelinie tại thủ đô Copenhagen của Đan Mạch, và bắt đầu đánh chiếm thành phố. Lính dù Đức đã chiếm sân bay Aalborg. Cùng thời gian ấy, đại sứ Đức gứi tối hậu thư cho Quốc vương Christian X. Các bản báo cáo về kế hoạch của Đức vốn đã được trình lên chính phủ Đan Mạch vài ngày trước đó nhưng bị bỏ qua. Quân đội Đan Mạch nhỏ yếu, thiếu sự chuẩn bị và trang bị lỗi thời nhưng vẩn kháng cự tại nhiều nơi ở trong nước; nhất là Đội cận vệ Hoàng gia đóng tại lâu đài Amalienborg ở Copenhagen, và các lực lượng tại ngoại ô HaderslevNam Jutland. Đến 6h00, Lực lượng không quân Hoàng gia Đan Mạch đã bị xoá sổ và hơn 30 máy bay ném bom Đức đe doạ sẽ ném bom xuống Copenhagen. Quốc vương Christian X, hội ý với Thủ tướng Thorvald Stauning, Bộ trưởng ngoại giao Peter Munch và tư lệnh của quân đội và lực lượng hải quân, đã quyết định đầu hàng vì tin rằng nếu tiếp tục kháng cự sẽ chỉ dẫn đến tổn hao vô ích sinh mạng người Đan Mạch. Công chúng Đan Mạch đã hoàn toàn bị bất ngờ trước cuộc xâm chiếm, và được chính phủ kêu gọi hợp tác với nhà cầm quyền Đức. Cuộc chiếm đóng Đan Mạch của Đức hoàn tất vào ngày 10 tháng 4 và kéo dài dài cho đến tháng 5 năm 1945.

Một phần quan trọng của đội tàu buôn Đan Mạch đã trốn thoát không bị chiếm giữ, khi mà Arnold Peter Møller, giám đốc công ty tàu biển Mærsk, ngày 8 tháng 4 đã ra lệnh cho 36 chiếc tàu của mình đang ở ngoài khơi phải chạy đến các cảng biển của Đồng minh hoặc các nước trung lập nếu có thể.

Trong hoạt động đầu tiên nhằm ngăn chặn cuộc xâm lược của Đức, ngày 12 tháng 4 năm 1940 quân đội Anh đã chiếm đóng quần đảo Faroe, một đơn vị hành chính tương đương cấp quận của Đan Mạch.

Đổ bộ tại Na Uy

Bản đồ Vịnh Oslo

Trong vịnh Ofot dẫn vào Narvik, 10 tàu khu trục Đức thuộc Nhóm 1 đã bắt đầu áp sát mục tiêu. Với việc tàu Renown cùng đội hộ tống chuyển hướng đi điều tra sự cố đối với tàu Glowworm, không còn một chiếc tàu Anh nào ở lại tại khu vực này, và họ đã tiến vào mà không gặp trở ngại gì. Cho đến lúc đến sâu vào gần Narvik, phần lớn các tàu khu trục đã dốc lực lượng chủ yếu ra chiếm các công sự bên ngoài vịnh Ofot, chỉ để lại 3 chiếc để chiến đấu với 2 tàu chiến cũ bảo vệ bờ biển thường trực của Na Uy, tàu EidsvoldNorge. Mặc dù cũ kĩ, 2 tàu phòng thủ bờ biển vẫn chống cự lại các tàu khu trục thiết giáp được trang bị gọn nhẹ hơn. Sau một cuộc trao đổi ngắn gọn với thuyền trưởng tàu Eidsvold, các tàu chiến Đức đã nổ súng trước, bắn chìm nó bằng 3 quả ngư lôi. Tàu Norge nhập trận ngay sau đó và bắt đầu bắn trả lại các tàu khu trục, nhưng do các pháo thủ không có kinh nghiệm nên đã không thể đánh trúng mục tiêu và bị đánh đắm bằng một loạt ngư lôi của Đức. Các khu trục hạm đổ bộ vào cảng, và sau một cuộc trao đổi ngắn, viên chỉ huy quân đồn trú Narvik, Đại tá Konrad Sundlo đã đem lực lượng ra đầu hàng không kháng cự,[22] rồi trao thành phố cho tướng Đức Eduard Dietl. Tuy nhiên, có 2 đại đội thuộc trung đoàn bộ binh 13 Na Uy đã từ chối không chấp hành mệnh lệnh đầu hàng và chạy tới biên giới Thụy Điển.[27] Lúc 8h10 các tàu khu trục thông tin về tổng hành dinh rằng Narvik, mục tiêu chính của cuộc xâm lược, đã bị chiếm đóng.[27]

Tại Trondheim, Nhóm 2 do lo sợ sẽ gặp phải hạm đội Anh nên trong đêm 9 tháng 4 đã trú tại cạnh bờ biển đối diện vịnh Trondheim.[35] Khi đổ bộ họ đã gặp một sự kháng cự nhỏ. Trong vịnh Trondheim, tàu Admiral Hipper tấn công các công sự phòng thủ trong khi các khu trục hạm băng qua chúng với tốc độ 25 km/h. Một phát đạn chuẩn xác từ tàu Admiral Hipper đã cắt đứt các dây cáp nối với hệ thống đèn pha rọi làm cho các khẩu đại bác hoạt động không còn hiệu quả. Trong suốt cuộc đổ bộ chỉ có một tàu khu trục bị trúng đạn. Đến 6 giờ trung đoàn súng trường sơn chiến 138 đã bắt đầu đổ bộ lên thành phố và các công sự ở bờ biển phía nam.[36] Chỉ huy trung đoàn, Đại tá Weiss, nhanh chóng nhận được sự quy phục của chính quyền địa phương.[36] Nhưng các tàu chở dầu và tàu chiến Đức đã gặp vấn đề về nhiên liệu, vì vậy họ không thể trở về Đức trong ngày 9 tháng 4, theo kế hoạch đã dự tính.[36] Sân bay và các công sự còn lại bị chiếm đóng ngày 11 tháng 4, đến ngày hôm đó hạm đội Đức vẫn ở lại vùng biển này.[37]

Tại Bergen, Nhóm 3 có chở các đơn vị bộ binh dẫn đầu bởi sư đoàn bộ binh 69, dưới quyền Thiếu tướng Hermann Tittel.[37] Lúc 4h30 một số đơn vị lục quân đã đổ bộ đánh chiếm pháo đài Kvarven đối diện Byfjord, và đến 5h15 Nhóm 3 đã tiến vào trong vịnh.[38] Pháo đài Kvarven bắn trả, làm bị thương tàu Carl Peters, nhưng các tàu khác đã vào được cảng Bergen.[39] Các công sự phòng thủ đã chống trả kiên quyết với cuộc tấn công của Nhóm 3 làm chiếc tuần dương hạm hạng nhẹ Königsberg cùng với tàu huấn luyện pháp binh Bremse bị thương nặng. Thế nhưng trời tối đã làm giảm hiệu quả chiến đấu của các khẩu đại bác, và các tàu đổ bộ đã cập bến mà không gặp thêm trở ngại nào nữa. Đến 6h20 cuộc đổ bộ kết thúc, 3 tiếng sau đã dập tắt được sự chống cự tại pháo đài Kvarvena và Sandviken,[39] sau khi có thêm nhiều đơn vị không quân Đức kéo đến. Đến trưa, Bergen hoàn toàn nằm trong tay người Đức, nhưng đến đêm, hạm đội Anh đã tiếp cận vịnh, bao gồm 3 chiến hạm, 10 tuần dương hạm và 20 khu trục hạm.[39] Schmundt quyết định ngay lập tức cho các tàu Đức rút lui, và lệnh cho các đơn vị quân đội sẵn sàng để phòng thủ bờ biển.[39]

Birger Eriksen, chỉ huy pháo đài Oscarborg. Quyết định nổ súng vào các tàu chiến quân xâm lược Đức của ông đã cứu cho chính phủ Na Uy khỏi bị bắt.

Có một số vấn đề đã phát sinh trong cuộc đổ bộ tại Kristiansand.[40] Do sương mù dày đặc nên đến tận 6h00 ngày 9 tháng 4 Rieva mới quyết định tiến vào trong vịnh, tại đó ông bị tấn công bởi lính Na Uy trong pháo đài Odder.[41] Tình cờ, đúng vào lúc đó, tàu buôn Seattle của Đức, chạy trốn hạm đội Anh, đã vào trong vịnh, vượt qua vòng vây của tàu Anh Curacoa không đúng lúc đúng chỗ, và đã bị đánh chìm bởi pháo đài Na Uy và khu trục hạm Giller.[41] Pháo đài Odder và Gleoddina đã ngoan cường kháng cự các cuộc tấn công của Không quân Đức, hai lần đẩy lui cuộc đổ bộ và bắn bị thương tàu Karlsruhe, suýt nữa làm tuần dương hạm này mắc cạn. Nhưng rồi lộn xộn đã xảy ra khi quân Na Uy nhận được lệnh không cho tấn công vào các tàu của Anh và Pháp và khi người Đức bắt đầu sử dụng mật mã của Na Uy mà họ bắt được tại Horten. Quân Đức đã nhân cơ hội này nhanh chóng tiếp cận bến cảng và đổ quân chiếm được thị trấn lúc gần 11h00.[42] Đến 17h00 trung đoàn bộ binh 310 của Đức có mặt tại Kristiansand.[42]

Vào thời điểm "giờ Weser", Stavanger đã bị tấn công bởi máy bay ném bom bổ nhào, và sau đó lính dù được thả xuống.[39] Đòn tấn công bằng lính thủy đánh bộ và pháo thủ phòng không được vận chuyển bằng máy bay đã khiến cho thành phố và sân bay Sola thất thủ rất nhanh chóng.[40]. Tàu khu trục Æger của Na Uy bị tàu Đức đánh chìm trong bến cảng, rồi sau đó đã bị Không quân Đức phá hủy.[40] Ngay sau khi đổ bộ trung đoàn bộ binh 193 thuộc sư đoàn bộ binh 69 đã kiểm soát một phần Stavanger.[40] Sáng ngày 9 tháng 4, một nửa số tàu quét mìn thuộc tiểu hạm đội 2 đã chiếm đóng bến tàu Egersund, cùng thời điểm này tàu Scarva của Na Uy cũng bị bắn chìm bởi thuỷ lôi.[40]

Theo kế hoạch quân sự và chính trị của Đức thì việc chiếm đóng thành công và nhanh chóng thủ đô Oslo là cần thiết, nhưng cuộc đổ bộ tại đây lại có nhiều rủi ro nhất.[42] Nhóm 5 đã gặp phải sự kháng cự dữ dội nhất từ các công sự phòng thủ bên trong vịnh Oslo, gần Drøbak. Tính toán rằng không có sự kháng cự đáng kể nào sẽ xảy ra, Chuẩn Đô đốc Oskar Kummetz đã quyết định đột phá tại nơi hẹp nhất của vịnh Oslo, đoạn hẹp Drøbak.[43] Tại lối ra vào phía bắc của cảng này có một pháo đài đặt trên đảo - pháo đài Oscarsborg.[43] Tàu Blücher, kỳ hạm của Kummetz, và cũng là tổng hành dinh sư đoàn của thiếu tướng Erwin Engelbrecht, dẫn đầu đội tàu, đã chủ quan tiếp cận các pháo đài vì cho rằng chúng sẽ bị bất ngờ và không thể phản ứng kịp giống như ở bên ngoài vịnh.[44] Không đợi chiếc tuần dương hạm vào hẳn trong tầm bắn, pháo đài Oscarsborg đã nổ súng bằng 2 khẩu đại bác Krupp 48 tuổi kiểu Đức (Moses và Aron, cỡ 280 li được lắp ráp tại pháo đài Oscarsborg tháng 5 năm 1893) từ khoảng cách 500 mét.[43] Trong vòng vài phút, tàu Blücher đã bị hỏng hệ thống điều khiển hỏa lực và bốc cháy dữ dội,[45] đồng thời cũng lãnh thêm 2 lỗ hổng bởi một loạt ngư lôi kiểu cũ đã 40 năm tuổi từ các ống phóng ngư lôi được ngụy trang tại Kaholme,[45] rồi cuối cùng bị chìm bị chìm dưới độ sâu 90 mét, cách bờ biển 400 mét.[45] Mặc dù hầu như không có áo phao và xuồng cứu hộ, dù lượng nhiên liệu tràn ra bốc cháy và nước lạnh đến 3 độ C, hầu hết các thủy thủ và quân nhân đều xoay xở lên được bờ, tại đó họ bị bắt làm tù binh của Na Uy trong một thời gian ngắn.[45] Tàu này có chở theo rất nhiều viên chức hành chính dự định phục vụ cho chế độ chiếm đóng Na Uy và cả bộ tư lệnh quân đội được phân công chiếm giữ Oslo. Tuần dương hạm Lützow cũng bị thương trong cuộc tấn công, và cho rằng tàu Blücher bị vướng phải bãi mìn, Thuyền trưởng August Thiele trên tàu Lützow đã ra lệnh cho các tàu Emden và Lützow là sẽ rút lui 19 km về phía nam đến đổ quân tại Sonsbukten để hỗ trợ cho một cuộc đột phá tại Drøbak.[46] Khoảng cách này đã làm chậm cuộc tiến quân vào Oslo của chủ lực quân Đức đi 24 giờ đồng hồ (mặc dù vậy Oslo vẫn bị chiếm chỉ 12 tiếng sau bởi lực lượng đổ bộ bằng không quân tại sân bay Fornebu).[44] Tại thời điểm này, trong cuộc chiến tại Horten, sau khi tàu quét mìn R-17 của Đức và tàu ngầm A-2 của Na Uy bị đánh chìm, viên chỉ huy Na Uy đã cho cảng đầu hàng.[46] Đến tối, Không quân Đức tấn công Drøbak và Oscarsborg, và các khẩu đội trong vịnh Oslo đã thương lượng đầu hàng.[46] Đến sáng ngày 10 tháng 4, các tàu Đức mới tiến được vào cảng Oslo.[46]

Sự trì hoãn quý giá này đã cho Quốc vương và Nghị viện Na Uy đủ thời gian để cùng với ngân khố quốc gia chạy trốn khỏi thủ đô và lên phía bắc tiếp tục chiến đấu chống quân xâm lược,[44][47] rồi cuối cùng trốn thoát sang Anh. Nhờ đó mà Na Uy đã không bao giờ phải chính thức đầu hàng quân đội Đức.

Một nửa trung đoàn bộ binh 324 thuộc sư đoàn 163 được phân công đến sân bay Fornebu, Oslo bằng đường không sau khi 1 đại đội lính dù của trung đoàn này đã chiếm được sân bay (nửa còn lại có kế hoạch đổ bộ tại Oslo cùng Nhóm 5).[29] Dự tính ban đầu của Đức là lính dù phải chiếm sân bay Fornebu một tiếng đồng hồ trước khi đội quân không vận đầu tiên tới nơi, nhưng số lính dù này đã bị mất phương hướng trong sương mù nên không đến được. Tuy vậy, do sân bay này không được bố phòng đầy đủ nên vẫn nhanh chóng bị bộ binh Đức - với sự yểm trợ của máy bay ném bom - đổ bộ và đánh chiếm.[48] Phi đội tiêm kích Jagevingen thuộc Bộ phận Không lực Lục quân Na Uy đóng tại Fornebu đã chống trả bằng máy bay tiêm kích hai tầng cánh Gloster Gladiator cho đến khi hết đạn và phải bỏ chạy đến bất kỳ sân bay nhỏ nào có thể. Lực lượng trên bộ của Na Uy cũng bị cạn đạn dược cho súng máy phòng không ngay sau đó, bởi vì trong không khí hỗn loạn và quá tập trung vào việc chuẩn bị chiến đấu cho các máy bay, không ai còn tâm trí hay thời gian để tâm đến vấn đề đạn dược cho các vũ khí cá nhân hạng nhẹ trên mặt đất. Cuộc kháng cự tại Fornebu kết thúc. Cố gắng sau đó của Na Uy nhằm tiến hành một cuộc phản công đã không được tiến hành tận lực và không đem lại kết quả gì. Sau khi nghe tin này, Oslo được tuyên bố là một thành phố mở. Lúc 9h00 các tàu vận tải đã bắt đầu hạ cánh tại sân bay Fornebu; đến chiều, bộ binh dưới sự chỉ huy của Đại tá Pohlmann đã tràn vào Oslo, và sớm chiếm đóng thành phố.[48]

Phản ứng của Đồng minh

350px|phải|nhỏ|Hạm đội hải quân 2 bên di chuyển trong các ngày 9-13 tháng 4Các cuộc đổ bộ của Đức tại Trondheim, BergenStavanger, cũng như trận giao tranh trong vịnh Oslo đã nhanh chóng được biết đến. Do chưa thể phân tán mỏng lực lượng ra vì không biết vị trí chính xác hai tàu thiết giáp của Đức, Hạm đội Nhà đã chọn địa điểm tập trung tại gần Bergen để tiến hành tấn công. Máy bay trinh sát thuộc Không quân Hoàng gia Anh sau đó đã báo cáo lại rằng lực lượng của đối phương mạnh hơn nhiều so với dự đoán, như vậy rất có khả năng quân Đức đã kiểm soát được hệ thống phòng thủ bờ biển, thế nên người Anh đã phải thu hồi lực lượng và thay vào đó họ dự định sử dụng hàng không mẫu hạm HMS Furious cho máy bay ném ngư lôi tấn công tàu địch. Nhưng cuộc tấn công đã không bao giờ diễn ra do các máy bay ném bom của Không quân Đức đã đi trước một bước trong việc mở cuộc công kích vào Hạm đội Anh. Khu trục hạm HMS Gurkha bị bắn chìm và Hạm đội Nhà đã buộc phải rút lui lên phía bắc khi mà các biện pháp phòng không của họ tỏ ra không hiệu quả. Ưu thế về không quân của Đức đã khiến Anh quyết định để lại khu vực hoạt động này cho tàu ngầm và không quân, còn các tàu nổi sẽ tập trung tất cả lên phía bắc.[49]

Cùng với những cuộc đổ bộ của Đức tại miền nam và trung Na Uy, Bộ Hải quân Anh cũng được biết qua một bản báo cáo khẩn cấp về sự có mặt của một khu trục hạm đơn lẻ của Đức tại Narvik. Bộ liền ra lệnh cho Tiểu hạm đội Khu trục số 2, gồm hầu hết là các tàu hộ tống trước đó trong chiến dịch Wilfred, đến đánh. Hạm đội này đặt dưới quyền chỉ huy của thuyền trưởng Bernard Warburton-Lee, mới chuyển đến từ tàu Renown trong cuộc truy đuổi các tàu ScharnhorstGneisenau, vốn đang làm nhiệm vụ bảo vệ tại lối ra vào vịnh Vest. Lúc 16h00 ngày 9 tháng 4, tiểu hạm đội này cử một sĩ quan lên bờ tại Tranøy cách Narvik 50 dặm về phía tây để thu thập thông tin và được cư dân địa phương cho biết lực lượng của Đức gồm từ 4–6 khu trục hạm và 1 tàu ngầm. Warburton-Lee báo cáo lại phát hiện này về cho Bộ Hải quân, cùng với ý kiến của ông ta là nên tấn công vào ngày hôm sau lúc "bình minh, nước lớn", như vậy sẽ đảm bảo yếu tố bất ngờ và tránh được các bãi mìn. Kế hoạch này được Bộ phê duyệt trong một bản điện tín gửi vào đêm hôm đó.

Sáng sớm ngày hôm sau, Warburton-Lee chỉ huy chiếc kỳ hạm HMS Hardy cùng 4 tàu khu trục tiến vào vịnh Ofot. Lúc 4h30, tàu của ông tới cảng Narvik, và tiến vào trong cảng cùng với tàu HMS HunterHMS Havock, để lại 2 tàu HMS HotspurHMS Hostile canh giữ lối ra và trông chừng các công sự trên bờ biển. Sương mù và tuyết quá dày đặc đã giúp cho quân của Warburton-Lee tiếp cận mà không bị phát hiện. Khi đến nơi họ phát hiện ra 5 tàu khu trục của Đức và nổ súng, mở màn trận Narvik lần thứ nhất. Các tàu chiến của Warburton-Lee đã bắn chìm 2 khu trục hạm, vô hiệu hóa một tàu khu trục khác, và đánh đắm 6 tàu chở dầu và tiếp tế của Đức. Tư lệnh quân Đức, thuyền trưởng Friedrich Bonte, đã tử trận cùng với chiếc kỳ hạm Wilhelm Heidkamp của mình. Tiểu hạm đội của Warburton-Lee sau đó đã rút ra khỏi cảng mà hầu như không bị thiệt hại gì.

Vào lúc 6h00, khi Tiểu hạm đội Khu trục số 2 đang trên đường trở lại cửa vịnh Vest thì từ trong vịnh Herjangs, 3 tàu khu trục của Đức tiến ra từ phía sau họ, do tư lệnh Erich Bey chỉ huy, và sau vài phút có thêm 2 chiếc khác xuất hiện từ phía trước và bao vây quân của Warburton-Lee. Chiếc Hardy bị tấn công đầu tiên và nhanh chóng bị bắn hỏng rồi được các sĩ quan cho cập cạn. Tàu Hunter là chiếc tiếp theo bị loại khỏi vòng chiến, bị chết máy tại chỗ sau khi trúng nhiều phát đạn. Rồi đến lượt tàu Hotspur bị tấn công làm hỏng hệ thống điều khiển, khiến cho tàu này đâm phải tàu Hunter. Người Đức tiếp tục bắn phá cặp tàu này cho đến khi chiếc Hotspur quay đầu chạy thoát được. Tàu Hostile và Havock lúc đó đang cố gắng chống trả cũng rút chạy theo tàu Hotspur. Các tàu Đức cũng bị trúng đạn và nhất là do thiếu nhiên liệu trầm trọng nên đã không thể truy kích. Khi họ tiến ra khỏi vịnh Ofot, 3 khu trục hạm của Anh đã kịp xoay xở đánh chìm thêm tàu tiếp tế Rauenfels.

Tàu Lutzow tại Kiel sau khi trúng thủy lôi từ tàu ngầm Spearfish của Anh trên đường trở về từ Na Uy.

Ngay sau trận Narvik lần thứ nhất, có thêm 2 tàu Đức khác bị quân đội Anh đánh đắm. Một chuỗi các cuộc tấn công của Binh chủng Không lực Hải quân xuất phát từ căn cứ tại Hatston thuộc quần đảo Orkney tại Bergen đã tiêu diệt chiếc tuần dương hạm bị thương Königsberg của Đức; đây là chiếc tàu chiến lớn đầu tiên được ghi nhận là bị bắn chìm bằng máy bay.[50] Thêm vào đó, tàu ngầm HMS Truant cũng đánh đắm tàu tuần dương hạng nhẹ Karlsruhe vào đêm ngày 9 tháng 4 ngay sau khi tàu này rời bến Kristiansand. Hôm sau, ngày 10 tháng 4, có thêm chiếc Furious và chiến hạm HMS Warspite gia nhập Hạm đội Nhà và một cuộc tấn công khác đã được tiến hành tại Trondheim nhằm tiêu diệt tàu Admiral Hipper. Thế nhưng tàu Admiral Hipper đã khéo xoay xở thoát khỏi đội canh phòng bên ngoài cảng và đang trên đường về Đức trong lúc cuộc tấn công diễn ra; và không một khu trục hạm hay tàu tiếp tế nào ở lại của Đức bị hư hại. May mắn hơn, ở phía nam, tàu HMS Spearfish đã đánh trọng thương được chiếc tuần dương hạm hạng nặng Lützow vào nửa đêm 11 tháng 4, khiến chiếc tàu này của Đức không thể hoạt động trong vòng 1 năm trời.

Trước tình hình ngày càng rõ rệt là hạm đội Đức đang rời khỏi hải phận Na Uy, Hạm đội Nhà tiếp tục bắc tiến về Narvik với hy vọng bắt kịp các tàu khu trục còn lại. Trên đường đi hạm đội bị các máy bay ném bom Đức quấy rối rất nhiều, buộc họ phải đổi lộ trình đi về phía tây ra xa bờ biển. Đến ngày 12 tháng 4, họ đã đến vùng Narvik và tàu Furious đã cho thử một cuộc tấn công bằng không quân nhưng kết quả không được như mong muốn. Điều này dẫn đến quyết định điều thêm chiến hạm Warspite cùng một lực lượng hộ tống mạnh do Whitworth làm tư lệnh đến trợ chiến.

Các trận hải chiến tại Narvik

Sáng ngày 13 tháng 4, quân của Whitworth tiến vào vịnh Vest, sử dụng máy bay trinh sát của tàu Warspite dẫn đường. Ngoài việc định vị được 2 tàu khu trục Đức, máy bay trinh sát còn bắn chìm một tàu ngầm địch, đây là cuộc đụng độ đầu tiên trong trận này. Các khu trục hạm hộ tống tàu Warspite đã đi trước chiến hạm này 5 km và giao chiến đầu tiên với các tàu Đức mà họ chạm trán, mở màn trận Narvik thứ hai. Mặc dù không bên nào chịu thiệt hại đáng kể, các tàu Đức bị bất lợi về vấn đề đạn dược và dần dần bị đẩy lùi vào trong cảng. Đến trưa, hầu hết các tàu Đức đều cố gắng bỏ chạy vào vịnh Rombaks, ngoại trừ tàu Künne đã tự cập cạn tại vịnh Herjangs và bị tiêu diệt bởi tàu HMS Eskimo. Bốn tàu khu trục Anh tiếp tục đuổi theo các tàu Đức trong vịnh Rombaks, và tàu Eskimo ngay sau đó đã bị thương. Mặc dù vậy tình cảnh của quân Đức vẫn là vô vọng khi cạn kiệt nhiên liệu và đạn dược, và khi các tàu của Anh đến nơi toàn bộ các thủy thủ đoàn đã bỏ trốn sau khi tự đánh đắm tàu. Đến 18h30 thì hạm đội Anh lên đường rời khỏi khu vịnh mà bây giờ đã hoàn toàn được dọn sạch.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Chiến_dịch_Na_Uy http://www.achtungpanzer.com/articles/norway.htm http://www.blackvault.com/documents/ADA394016.pdf http://www.feldgrau.com/norwegian.html http://hem.fyristorg.com/robertm/norge/index.html http://www.magweb.com/sample/sconflic/co03wese.htm http://www.magweb.com/sample/sconflic/co03wesm.htm http://stonebooks.com/archives/090607.shtml http://digital.library.wisc.edu/1711.dl/FRUS.FRUS1... http://www.history.army.mil/books/70-7_0.htm http://www.history.army.mil/books/70-7_02.htm